Các yếu tố quyết định lựa chọn cảng container

Dịch vụ của cảng container bao gồm hai nhóm dịch vụ cơ bản phục vụ cho hai đối tượng khách hàng cơ bản là hãng tàu/đại lý (shipping line/agent) và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu (shipper/consignee). Dịch vụ cung cấp cho các hãng tàu có thể bao gồm dịch vụ xếp dỡ container (loading/discharging/stevedoring service –đây là yếu tố quyết định đến tổng thời gian tàu phải chờ tại cảng để làm hàng (ship turn-around-time)), dịch vụ đóng rút ruột container (stuffing/stripping), dịch vụ lưu bãi container (storage), hay các dịch vụ chạy và kiểm tra điện lạnh cho container lạnh (PTI–PreTrip Inspection), dịch vụ cho container hàng nguy hiểm, hàng quá khổ, quá tải, dịch vụ sửa chữa, vệ sinh container… Về phía khách hàng là doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cảng container có thể cung cấp các dịch vụ nâng/hạ container (lift-on/off service), dịch vụ lưu kho/lưu bãi cho hàng hóa, dịch vụ đóng rút ruột hàng hóa (CFS), hay các dịch vụ giá trị gia tăng khác mà một cảng có thể cung cấp cho khách hàng để tăng thêm sự tiện lợi cho họ (ví dụ, dịch vụ dán nhãn hàng hóa, đóng lại bao bì…).

Dịch vụ của một cảng container tốt hay xấu, ngoài yếu tố con người, các yếu tố về trang thiết bị-công nghệ cũng góp phần quan trọng mang lại dịch vụ tốt cho khách hàng.

Tổng thời gian làm hàng cho tàu (ship turn-around time) là tổng thời gian mà tàu phải neo tại bến để phục vụ cho việc bốc dỡ hàng hóa. Thời gian này được tính từ lúc tàu thực tế cập vào bến (ATB – Actual Time of Berthing) cho đến khi làm hàng xong và tàu thực tế rời khỏi bến (ATD – Actual Time of Departure). Thời gian tàu tại bến dài hay ngắn do hai yếu tố cơ bản quyết định: năng suất bốc xếp của cẩu cảng (crane productivity) và lượng hàng có trên tàu (total moves of loading and discharging). Nếu bỏ qua yếu tố thứ hai (lượng hàng có trên tàu –được cho là yếu tố khách quan đối với các cảng) thì yếu tố quan trọng nhất quyết định đến thời gian tàu phải nằm tại cảng là năng suất bốc xếp của cảng –do tốc độ và hiệu quả làm việc của cần cẩu bờ (quay crane) quyết định. Đây là yếu tố mà các hãng tàu phải cân nhắc kỹ lưỡng khi quyết định đưa tàu mình về cảng nào, bởi thực tế cho thấy rằng, trong thời gian ùn tắc tại cảng (khỏang nửa đầu năm 2008), có nhiều tàu container đã phải neo chờ cầu bến tại một số cảng với thời gian lên đến 48 giờ hay thậm chí là 72 giờ (làm phát sinh rất nhiều chi phí cho hãng tàu). Ngòai ra, thời gian tàu nằm tại cảng phục vụ việc làm hàng càng ngắn sẽ giúp hãng tàu tiết kiệm được các chi phí liên quan như phí cầu bến, phí neo đậu, phí nhiên liệu, còn cảng sẽ tránh được nguy cơ ùn tắc tại cảng. Thêm vào đó, việc rút ngắn được thời gian này cũng giúp hãng tàu có thể tăng thêm thời gian làm hàng ở cảng khác (có thể bốc xếp được thêm hàng hóa) hoặc giảm tốc độ tàu (giảm tốc độ tàu trên hải trình từ một cảng ở HCM đến các cảng quốc tế khác nhưng vẫn giữ đúng thời gian trên lịch tàu) nhằm giảm chi phí nhiên liệu (bunker cost).

Thời gian xe tải chờ tại cảng để nhận hàng (truck turn-around time) là tổng thời gian được tính từ lúc xe tải thực tế đến tại cổng cảng (để thực hiện một công việc, giao container hàng xuất khẩu hoặc nhận container hàng nhập khẩu) cho đến khi xe tải thực hiện xong thủ tục tại cổng cảng, đi vào trong bãi container để nhận/hoặc giao container cho đến khi xe tải thực tế hoàn thành công việc của mình và đi ra khỏi cổng cảng. Thời gian chờ này ngắn hay dài, ngòai yếu tố con người (yếu tố trực tiếp giải quyết thủ tục với xe tải), thì yếu tố công nghệ (hệ thống quản lý cảng –Terminal Operating System) được cho là quan trọng nhất. Có nghĩa là, ngay khi xe tải đến cảng, nhân viên tại cổng cảng chỉ cần một thao tác đơn giản trên hệ thống máy tính là có thể biết được vị trí-tình trạng thực tế của container mà xe tải muốn nhận, hay nói cách khác, công việc giao/nhận container này đã được hệ thống máy tính quản lý cảng lập trình một cách đồng bộ và tiện lợi trước cho khách hàng. Trong lúc ngày càng có nhiều cảng mở ra họat động, đây được cho là yếu tố giúp khách hàng cân nhắc trong việc chọn cảng để xuất hàng hóa của mình. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đã không chú trọng đúng mức đến yếu tố này. Thực tế cho thấy, thời gian chờ này ngắn hay dài cũng góp phần tăng thêm thời gian chờ tại cảng cũng như phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp (có thể là chi phí tiêu cực mà doanh nghiệp phải “lót tay” cho nhân viên cảng nhằm lấy được container của mình trong trường hợp ùn tắc tại cảng như thời gian nửa đầu năm 2008 là một minh chứng).

Thời gian/chi phí chủ hàng đưa hàng về cảng là tổng thời gian/chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để vận chuyển container hàng từ nhà máy của mình về tới cảng (trong trường hợp là container hàng xuất khẩu) hay vận chuyển container hàng từ cảng về nhà máy (trong trường hợp là container hàng nhập khẩu). Thời gian này dài hay ngắn chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản là vị trí của cảng, khỏang cách từ nhà máy của doanh nghiệp đến cảng, và tình trạng giao thông, đường sá từ nhà máy của doanh nghiệp đến cảng. Một yếu tố nữa cũng phải được kể đến là việc cấm đường hoặc hạn chế xe tải lưu thông vào những giờ quy định (nhất là trường hợp xe đi vào cảng phải đi qua trung tâm thành phố hoặc những đường giao thông huyết mạch). Đây cũng là yếu tố quan trọng góp phần quyết định chọn cảng nào để xuất hàng của các doanh nghiệp.

Thạc sỹ Nguyễn Đăng Bền

Leave a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *